Tranh dân gian Việt Nam

Ngày: 22/01/2024
Tranh dân gian Việt nam là do tập thể nhân dân sáng tác. Nó xuất hiện vào khoảng thế kỷ XI ( thời Lý) và phát triển mạnh vào thời Lê - Trịnh (1533 - 1738).

Tranh dân gian Việt nam thường bán vào dịp tết nên thường được gọi là tranh tết.

Hiện còn 2 dòng tranh dân gian chính đó là: Tranh Đông Hồ ( thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh) và tranh Hàng Trống ( phố hàng trống Hà Nội).

• Ngoài ra còn có tranh Kim Hoàng ( Hà Tây)
• Tranh làng Sình (Huế).


Đại cát - Tranh Đông Hồ


Cá chép - Tranh dân gian Đông Hồ


Lý ngư vọng nguyệt - Tranh Hàng Trống


Hứng dừa - Tranh Đông Hồ


Đánh ghen - Tranh Đông Hồ


Thất đông - Tranh Hàng Trống

Sau đây là vài nét khái quát vẽ tranh dân gian Việt Nam:

1. KỸ THUẬT LÀM TRANH DÂN GIAN

Các nghệ nhân phải nghiền ngẫm, suy nghĩ, tìm tòi kỹ thuật làm tranh dân gian. Các mẫu tranh thường được vẽ bằng bút lông, mực nho lên giấy bản, nét vẽ phải rõ ràng, mạch lạc để khi chuyển sang bản khắc không bị khõ khăn khi khắc nét.

Các nghệ nhân như: Nguyễn Thế Thức 1882-1943; Vương Chi Long 1887-1944; Vương Chi Lương 1916-1946; Phùng Đình Năng 1911; Lê Đình Thổ, Lê Đình Liệu vv...

1.1. Khắc ván

Phụ trách khâu này là những nghệ nhân có tay nghề khắc giỏi như Nguyễn Đăng Tuỵ, Nguyễn Đăng Mưu, Nguyễn Thế Bản, Hà Văn Tư là những nghệ nhân giỏi trước CM tháng 8 ở dòng tranh Đông hồ. Trang Hàng trống lại do thợ khắc gỗ Hàng Gai hoặc thợ khắc kinh ở đền Ngọc Sơn đến khắc.

Trước khi khắc phải phải dán úp mặt tranh vào tấm gỗ, miết phẳng tờ tranh bám chặt vào mặt gỗ, các nghệ nhân khắc nhìn vào hình trên mặt trái của tranh đêr khắc bằng mũi dao, mũi đục...

Tranh màu được chia thành 2 loại ván khắc: Bản khắc nét bằng gỗ thị, gỗ mỡ hay gỗ lồng mực. Bản khắc màu bằng gỗ dổi hay vàng tâm, là loại gỗ nhẹ, thớ mềm xốp, dễ hút màu. Tranh Đông hồ có nhiều bản khắc màu là tuỳ theo số lượng màu trong tranh. 

Các dụng cụ khắc: Bộ ve khắc ván Đông hồ gồm khoảng 40 chiếc, phân làm 4 loại:

• Móng: Lưỡi ve lòng máng
• Thoảng: Lưỡi ve hơi lòng máng
• Thẳng: Lưỡi ve thẳng
• Dẫy nền: Lưỡi ve lòng máng, thân ve uốn cong, để dễ dũi, đào sâu xuống gỗ.
• Ván khắc Đông hồ thường nhỏ, nhẹ tiện cầm trên tay. Ván Hàng trống to, rộng, dầy.

1.2. In tranh

In tranh rất công phu, đây là khâu phức tạp chia thành nhiều khâu nhỏ: Pha giấy, bồi điệp, nhuộm giấy đến việc pha chế màu sắc để in. Công việc bồi điệp, nhuồm giấy và in thường được tiến hành về mùa đông, mùa khô ráo thuận tiện cho việc in tranh và tô màu. Giấy in tranh là giấy dó mỏng, mềm, dễ hút màu. Giấy này được làm từ loại cây dó mọc hoang trong rừng. Cơ sở sản xuất giấy ở làng Bưởi, làng Cót ngoại thành Hà nội xưa và làng Đông cảo (Bắc ninh cũ)

* Chất liệu

- Màu sắc chủ yếu là bằng  thảo mộc và khoáng sản:

• Màu đỏ vàng từ gỗ cây vang.
• Màu vàng ấm từ hoa hoè, hoa dành dành.
• Màu xanh từ lá cây chàm.
• Màu trắng từ vỏ con điệp.
• Màu đen lấy từ than rơm nếp, than soan.

-  Đường nét:

• Tranh Đông Hồ đường nét chắc khoẻ.
• Tranh Hàng Trống nét mềm mại, tinh tế.

- Giấy in bằng giấy dó thường quét nền điệp nên còn gọi là giấy điệp: Trong tranh dân gian người ta ví đường nét là dáng còn màu là men (nhất dáng nhì men). Nghệ nhân in tranh cầm ván bên tay phải, cầm ở ngón “tay cò” đóng sau ván in, Rập mặt nét hay mặt hình xuống mặt bìa có bôi màu, để màu thấm đều vào bản in. xong ấn ván lên tờ giấy dó  bôi điệp, sau đó lật ngữa ván in có dính theo tờ giấy dó  và xoa đều miếng xơ mướp lên mặt tờ giấy để nét và màu in đều lên tời giấy, bóc tờ giấy điệp ra ta sẽ có hình hay những mảng màu in nổi lên mặt tờ giấy điệp. Tờ tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu lần in, mỗi lần chỉ in được một màu.

* Hình thức thể hiện

• Lấy hình để gợi ý không gian, ánh sáng, con người đều ước lệ. Bố cục theo lối vừa chặt chẽ vừa cân đối.
• Tranh Đông Hồ khắc trên ván, mỗi màu một bản khắc, in màu trước và in nét sau cùng.
• Tranh Hàng Trống in nét trước sau đó tô màu bằng bút lông.

2. NỘI DUNG TRONG TRANH DÂN GIAN

Nội dung trong tranh dân gian đề cập đến cuộc sống thiết yếu của người lao động. Phản ánh tâm tư, nguyện vọng hoài bão bao đời mà họ hằng mong ước đó là cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Các đề tài như

- Chúc tụng- Thờ cúng- Cảnh vật- Lịch sử- Tranh truyện
- Sinh hoạt xã hội: “Hứng dừa” và “ Đánh vật”.
- Đả kích - châm biếm: “Đánh ghen”, “Đám cưới chuột”
- Tuyên truyền - cổ động…….

3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRANH DÂN GIAN

Nghệ nhân xưa đã đề cao các tiêu chí để tranh đạt đến giá trị nghệ thuật của tranh dân gian như

• Đường nét phải khéo, gọn, tả đúng chất, đi dứt khoát
• Màu sắc phải tươi đậm và trong, màu nào rõ ràng màu ấy.
• Hình phải khái quát, đúng đặc trưng của tường loại đối tượng
• Khi vẽ người phải tạo được các dáng, cái thần. Người sao tính vậy “Nhân hình tại mạo, trắng gạo ngon cơm”

3.1. Đường nét trong tranh dân gian

Đường nét đóng vai trò quan trọng tronh tranh dân gian, đường nét tạo nên hình trong tranh, đường nét bao quanh mảng màu làm cho màu đằm thắm trên nền tranh. đường nét được xem là dáng, màu là men “ nhất dáng nhì men”. Đường nét trong tranh thể hiện tính cách cuả nhân vật. Tranh Đông hồ đường nét khoẻ, mập nhưng vẫn thể hiện tính cách của nhân vật. Tranh hàng trống đường nét nuột nà, tinh tế

3.2. Màu sắc trong tranh dân gian

Cảm thụ màu sắc của thiên nhiên và tâm lý dân tộc, các nghệ nhân xưa đã đưa lên mặt tranh dân gian một cách sáng tạo. Tranh dân gian thường in màu lên 2 loại tranh “ Tranh đỏ” và “tranh trắng”:

• Tranh đỏ: Với các màu nền như hồng điều, hồng hoàng và tàu vang.
• Tranh trắng: In trên giấy mộc hoặc quét điệp

3.3. Bố cục của tranh dân gian

Tranh dân gian Việt nam không có ý tả hình gây ấn tượng như cảnh thật, mà hình gợi ý, đi thẳng vào những yêu cầu của chủ đề. Không gian, ánh sáng, con người đều được bố cục theo lối ước lệ hoá.

3.4. Thơ trong tranh dân gian

Thơ trong tranh dân gian vừa là ý của tranh, vừa tham gia làm cho bố cục tranh thêm chặt chẽ. Các dòng thơ chữ hán hay chữ nôm tuỳ theo từng đề tài mà viết sao cho phù hợp, có nét mềm, nét cứng tạo nên sự phong phú đa dạng.

Trong tranh hứng dừa:

“Khen ai khéo dựng nên dừa
Đấy trèo, đây hứng cho vừa một đôi...”

Trong tranh đánh ghen:

“ Thôi thôi bớt giận làm lành
Chi điều sinh sự nhục mình nhục ta...”

3.5. Hạn chế của tranh dân gian

Về mặt nội dung: vẫn còn hạn chế trong sinh hoạt ở nông thôn với tầm nhìn chật hẹp, những mâu thuẩn xã hội chưa được đề cập trực diện, chỉ mới dám phê phán chế độ đa thê, hay dùng dán tiếp là cóc, mèo và chuột để đả kích châm biếm nho sĩ, quan trường.

Về nghệ thuât: 

• Tranh Đông Hồ hay Hàng Trống đều cho ta thấy được nét đẹp của tranh dân gian, tuy nhiên cũng có nhiều nghệ nhân khi thể hiện tranh chưa thực sự đề cao đến giá trị nghệ thuât, dẫn đến có tranh còn chưa đẹp.
• Tranh Nam bộ như tranh Sình (Huế) do tính chất tranh thờ cúng xong đốt ngay, không ở lâu với người mua vì vậy các nghệ nhân ít chú ý đến yêu cầu về thẩm mĩ.

3.6. Sức sống của tranh dân gian

Các tác phẩm tranh dân gian Việt nam là sản phẩm của nghệ thuật dân tộc Việt nam, bắt nguồn thực tế xã hội Việt nam, đã tồn tại lâu đời và đi sâu vào tình cảm và là nhu cầu không thể thiếu được trong thẩm mĩ dân tộc Việt. Ngay nay những bức tranh dân gian Đông hồ vẫn con nguyên giá trị giáo dục tích cực cho tất cả các tầng lớp xã hội  

Vận hành và phát triển bởi Techreal.vn